1/Ở những ngành khác thì nữ vừa nhiều vừa xinh đẹp, ngành IT thì ngược lại.
- Điều này thì tự ai đã và đang học CNTT ở các trường ĐH thì biết rồi. Không riêng gì trong ngành CNTT mà trong những ngành kĩ thuật thì số lượng nữ giới cũng rất thấp. Tuy nhiên so với các ngành như Cơ Khí, Điện Tử thì tỉ lệ nữ giới học CNTT cũng còn khá cao. Nhưng khi học xong và đi làm thì tỉ lệ nữ giới làm lập trình lại càng giảm, đa số các bạn âý làm QC, DB, BA, … .Ở nhóm tôi khoảng 20 người chỉ có mỗi 2 dev, 2 QC là nữ, còn lại toàn đực rựa. Tuy nhiên cũng an ủi là trong cty vẫn có nhiều chị em xinh lắm hĩ hĩ nhưng không làm ở bộ phận lập trình. Thiếu thốn này thường dẫn đến điều thứ 2.
2/Xác suất phải lập gia đình với người cùng ngành rất cao
- Nghe có vẽ như hơi mâu thuẫn, đã ít nữ thì làm sao xác suât này cao được. Thế nhưng những người làm IT thì kể từ lúc đi làm thường nhìn máy tính nhiều hơn giao tiếp với ngưòi thật nên sẽ ăn nói kém, giao tiếp kém, cơ hội gặp những phụ nữ khác ngành cũng ít hơn những người làm ở ngành khác nên trời kiu ai nấy dzạ . Tuy nhiên chúng ta thường quen nửa cuộc đời của mình từ trong trường ĐH hoặc ở nơi làm việc nên điều này có thể cũng đúng với những người làm ở các ngành khác. Dù những người làm ở ngành IT chúng ta thường được cái thông minh, nhưng 2 người thông minh thì sinh con ra chưa chắc thông minh nên đây cũng là một hiểm họa tiềm tàng. Hơn nữa, 2 người cùng ngành IT giờ gặp nhau ngoài nói chuyện bug, code thì chán chết. Phải chi chàng kể chuyện bug, nàng hỏi bug là gì huh anh thì có thú vị ko nhẩy
3/Bạn sẽ bị yếu đi.
- Điều này không có gì phải bàn cãi. Thứ nhất ngồi nhiều … thì bụng và mông sẽ to. Bụng càng to càng khó làm... nhiều thứ và tuổi thọ giảm. Ngồi nhiều thì còn có thể gây ra nhiều bệnh tế nhị khác. Ngoài 2 cái bệnh đằng trước và đằng sau thì còn bệnh ở mắt do nhìn quá nhiều. Đa số người làm IT xung quanh ta đều bị cận thị. Gõ máy tính thường xuyên sẽ ảnh hưởng đến tim, rê chuột thường xuyên sẽ thoái hóa cổ tay. Ngoài ra cột sống sẽ bị chai hoặc mọc gai do cái tật ngồi nhiều hơn đứng của công việc này. Ngoài ra, những ngưòi làm IT thường có thói quen làm việc, sinh hoạt ban đêm. Cái giờ đáng lẽ những người trong những ngành khác làm cái việc mà ai cũng biết là việc gì đấy thì người trong ngành IT lại gõ gõ, click click và nó thường gây ra bệnh đau bao tử. Tay chân ít hoạt động nên con người thường cảm thấy mỏi mệt, lười vận động, thậm chí cả lười tắm nên đừng thắc mắc tại sao một số SV ở ngành IT thường hay ở dơ. Nói chung làm cái nghề này nếu ko chịu sinh hoạt … điều độ thì đừng mong thọ.
4/Bạn sẽ thường xuyên bị làm phiền bởi người quen.
- Đây là một trong những điều tệ hại và khó chịu nhất mà bạn sẽ gặp phải. Những người quen của bạn, bạn bè, bà con, cô dì chú bác, bạn của ba của mẹ sẽ gọi điện nhờ bạn giúp khi họ không nghe nhạc được, máy khởi động chậm, không thấy webcam, không biết đưa hình lên blog. Kiểu hỗ trợ kĩ thuật miễn phí này bạn nên cẩn thận vì nó sẽ thường xuyên lặp đi lặp lại. Một số trường hợp bạn sẽ được trả công nhưng theo tôi bạn chẳng cần số tiền chả đáng đổ xăng đó làm gì so với thời gian bạn phải chạy đi chạy lại. Đa số những người nhờ bạn giúp sẽ mong muốn được hỗ trợ miễn phí và tôi chắc chúng ta sẽ không vui gì về điều đó. Vì vậy hãy tập nói không khi có thể.
5/Bạn sẽ thường xuyên bị về trễ mà không được trả tiền.
- Đặc thù của ngành IT là công việc thường không thể tính chính xác bằng giờ. Có nghĩa là không phải cứ 1 lượng thời gian nào đó thì sẽ làm xong một công việc. Thuờng thì chúng ta sẽ phải ở lại thêm 1h, 2h để làm nốt công việc của mình nếu bạn là người có trách nhiệm. Nhưng dù có trách nhiệm hay không thì khi công việc chưa xong mà đã gần đến deadline thì bạn vẫn phải ở lại để hoàn thành những gì còn dở dang, và tất nhiên không có xu nào cả.
6/Bạn sẽ thường xuyên bị stress.
- Khi làm việc với những project lớn nhiều người, công việc sẽ theo flow rõ ràng, bạn làm ngưòi khác test, manager dí, và khi đến những ngày cuối cùng là lúc bạn làm việc nhiều nhất. Phải suy nghĩ nhiều, cơ thể mệt mỏi thiếu ngủ cộng với căng thẳng khi làm việc sẽ khiến nhiều người bị stress. Theo một số điều tra thì thủ phạm gây stress nhiều nhất là email. Khi phải đọc khoảng 100 email một ngày thì người hiền lành cũng trở nên gắt gỏng. Bởi vậy những người làm IT thường hay khó chịu đột xuất.
7/Lương bạn sẽ tăng rất chậm.
- Làm IT lương khởi điểm sẽ khá cao so với một số ngành nhưng tốc độ tăng sẽ chậm và ít đột biến. Thường thì những người làm IT sẽ giải quyết nhu cầu tăng lương bằng cách nhảy sang công ty khác. Cho nên những bạn sinh viên mới ra trường nên tìm một công ty có lương khởi điểm khá tốt vì thông thường chu kì tăng lương sẽ là từng năm và khi lạm phát 2 chữ số mà tăng lương dưới 15% + với trả lương bằng tiền Việt thì hơi bị đuối. Tốt nhất nên tìm hiểu những anh chị đi trước hoặc xác định mục tiêu của mình để tìm hướng đi khác vì làm lập trình chay khó làm giàu lắm.
8/Không phải lúc nào cũng được làm công việc ưa thích.
- Bạn từng nghĩ sẽ áp dụng những kĩ thuật tiên tiến nhất của các ngôn ngữ lập trình hiện đại, sẽ học hỏi những công nghệ mới nhất và làm việc với những chuyên gia đầy kinh nghiệm trong lĩnh vực CNTT nhưng thường thì không phải như vậy. Ở những công ty càng lớn thì sẽ càng có những project kì lạ kiểu như chuyển nguyên một chương trình từ VB6 sang C#, hoặc từ một ngôn ngữ rất cổ xưa sang C#. Tuy đòi hỏi kiến thức lập trình trên 2 ngôn ngữ, khả năng đọc hiểu code nhưng nói chung công việc như vậy khá nhàm chán và tôi nghĩ chẳng ai muốn theo đuổi lâu dài. Đôí vơí những project lớn thì chi phí cho công nghệ mới là một trong những vấn đề quan tâm của khác hàng. Bạn muốn sử dụng SQL 2005 nhưng khách hàng sẽ nói “No” khi họ đã có licence cho SQL 2000 và không muốn bỏ tiền mua thứ mới. Bạn muốn sử dụng ASP.NET để làm website cho khách hàng nhưng họ cho rằng PHP sẽ rẻ hơn vì không tốn nhiều licence cho máy chủ WINDOWS. Bạn muốn dùng ORM tool để tiết kiệm thời gian lập trình nhưng khách hàng nhất quyết bạn phải dùng Store Procedure và viết code gọi bằng C# vì làm vậy nhanh hơn 30 milisecond khi gọi 10000 query. Nói chung khách hàng là thượng đế và chúng ta phải nghe theo.
9/Khi nhảy việc cũng không đơn giản, có khi phải bắt đầu lại từ đầu.
- Lương bạn hiện không cao trong khi lương tụi bạn đã gấp 2 mình. Đề nghị xếp tăng lương thì sao, liệu xếp có chịu tăng cho mình gấp rưỡi không chứ đừng nói gấp 2. Tại sao không nhảy việc khi vừa có thể có lương cao hơn lại có thể học hỏi nhiều cái mới và làm quen với nhiều con người mới. Nhưng khi nhảy việc là lúc bạn phải chấp nhận làm lại từ đầu. Có thể bạn có nhiều kinh nghiệm từ công ty cũ nhưng sang môi trường mới sẽ không có đất để dụng võ. Và khi chưa biết gì hết thì bạn sẽ là một newbie và chấp nhận làm lại từ con số không. Vì vậy theo tôi nếu tìm được một công việc mới lương gấp rưỡi trở lên thì hãy nhảy, còn không ở lại cho lành và chờ thời cơ.
10/Rất khó để thành lập công ty phần mềm riêng
- Tỉ lệ thất bại cao của các công ty IT mới thành lập đã nói lên điều này. Nếu bạn làm IT khi muốn mở một công ty làm phần mềm thì rất khó. Một trong những khó khăn lớn nhất là sự cạnh tranh. Bạn sẽ khó mà kiếm được project từ những khách hàng lớn khi công ty của bạn chưa hề có tên tuổi hoặc không có công ty mẹ đỡ đầu. Nếu chấp nhận làm dự án nhỏ thì có vô khối công ty đã làm như vậy. Những công ty may mắn sống sót nhờ vào dạng những project nhỏ này họ có thể thực hiện website trong vòng một tuần nhờ tái sử dụng những cái đã có từ project cũ và chúng ta sẽ khó mà cạnh tranh nỗi khi kinh nghiệm tổ chức và kinh doành là con số 0. Giỏi lập trình không có nghĩa là giỏi quản lý và càng không có nghĩa là giỏi kinh doanh nên làm công ty về IT không hề đơn giản. Và khi không có một project nào trong khi phải nuôi đội quân cỡ 5 người, cộng với trả tiền điện, tiền mặt bằng trong vòng 3 tháng là bạn phải nghĩ đến chuyện giải tán.
Đó là 10 trong khá nhiều những khó khăn, thiệt thòi, gian khổ của ngành IT. Làm IT không đơn giản và không sướng chút nào, càng không dễ làm giàu. Thế nên những ai nghĩ rằng làm IT sướng và lương cao thì nên xem lại và cân nhắc nêú như đang chọn nghề cho mình. Đây là những ý kiến chủ quan của tôi, có thể có nhiều ý kiến trái ngược và bổ sung khác cho nên rất mong được sự chia sẽ từ các bạn. Mọi comment khen ngợi, chửi bới đều hoan nghênh
Monday, January 11, 2010
Tạo menu dual-boot sau khi cài Windows XP song song Vista/7
Menu dual-boot là giao diện hiện ra trong khi khởi động để chọn phiên bản Windows muốn sử dụng trong trường hợp máy tính cài đặt nhiều hệ điều hành. Bài viết sau đây sẽ hướng dẫn bạn cách tạo menu dual-boot trong trường hợp cài đặt Windows XP cùng với Windows Vista/7.
Nếu đang sử dụng Windows XP và cài đặt thêm một phiên bản Windows mới hơn, hệ thống sẽ tự động được thiết lập chế độ Dual-boot, cho phép người dùng chọn phiên bản Windows để sử dụng trong quá trình khởi động.
Trong trường hợp ngược lại, nghĩa là bạn cài đặt phiên bản Windows mới (Vista hoặc Windows 7) nhưng lại muốn cài đặt thêm Windows XP để đáp ứng mục đích sử dụng nào đó, thì để tạo được dual-boot, giúp chọn phiên bản Windows để sử dụng là điều không hề đơn giản.
Thủ thuật dưới đây sẽ hướng dẫn các bước để cài đặt Windows XP trên Windows Vista/7 hiện hành, và các bước để tạo menu dual-boot, giúp chọn phiên bản Windows trong quá trình khởi động.
Lưu ý: các bước tiến hành mẫu được thực hiện trên Windows 7. Với người dùng Windows Vista, các bước thực hiện hoàn toàn tương tự.
Tạo phân vùng mới để cài đặt Windows XP
Bước đầu tiên cần tiến hành đó là khởi tạo một phân vùng mới trên ổ cứng rồi cài đặt Windows XP trên phân vùng mới này. Bạn thực hiện theo các bước sau:
- Kích chuột phải vào biểu tượng My Computer, chọn Manager.
- Tại hộp thoại Computer Management hiện ra, chọn mục Disk Management. Danh sách các phân vùng ổ cứng sẽ được liệt kê ở khung bên phải. Click chuột phải vào phân vùng ổ cứng nào có nhiều dung lượng trống nhất, chọn Shrink Volume.
- Tại hộp thoại tiếp theo, bạn điền dung lượng muốn sử dụng để khởi tạo cho phân vùng mới. Dung lượng có thể sử dụng phụ thuộc vào dung lượng trống đang có trên phân vùng. Trong hình ảnh minh họa dưới đây, bạn sẽ thấy dung lượng được chọn để thiết lập là 40 GB. Nhấn vào nút Shrink để tiếp tục.
Lưu ý: Phân vùng để cài đặt Windows XP chỉ cần dung lượng tối thiểu là 1.5 GB.
Sau khi quá trình phân chia ổ đĩa kết thúc, tại danh sách các phân vùng ở bên dưới, bạn sẽ thấy một phân vùng mới, được đánh dấu Unallocated. Kích chuột phải vào phân vùng này và chọn New Simple Volume.
Quá trình thiết lập phân vùng mới sẽ được bắt đầu. Tại hộp thoại mới hiện ra, quá trình sẽ yêu cầu bạn chọn định dạng, đặt tên và tiến hành format cho phân vùng mới. Nhấn Next để qua bước tiếp theo.
Sau khi quá trình format phân vùng mới hoàn thành, trên hộp thoại Disk Mangagement, bạn sẽ thấy xuất hiện một phân vùng với đầy đủ tên, định dạng và dung lượng như đã thiết lập ở trên.
Cài đặt Windows XP vào phân vùng mới
Sau khi đã khởi tạo một phân vùng mới, việc tiếp theo là cài đặt Windows XP vào phân vùng vừa được khởi tạo này.
Các bước khởi động từ đĩa cài đặt, thiết lập… sẽ không được hướng dẫn ở đây. Tuy nhiên, lưu ý, trong quá trình cài đặt, tại bước yêu cầu chọn phân vùng, bạn phải chọn đúng phân vùng mới tạo ra để cài đặt Windows XP lên đó.
Cuối cùng, tiến hành các bước cài đặt như thông thường.
Tạo menu Dual-boot
Sau khi quá trình cài đặt Windows XP kết thúc, máy tính sẽ tự động khởi động và sử dụng Windows XP làm hệ điều hành chính, và bạn không có cách gì để khởi động vào Windows Vista/7 sẵn có trước đó. Đó là lý do chúng ta cần phải khởi tạo menu dual-boot.
Menu dual-boot là giao diện xuất hiện trong quá trình khởi động, cho phép người dùng chọn phiên bản Windows để sử dụng trong trường hợp máy tính được cài đặt 2 hệ điều hành khác nhau.
Như trên đã đề cập, nếu bạn cài đặt Windows Vista/7 trên máy tính sẵn có Windows XP, menu dual-boot sẽ tự động được khởi tạo. Trong trường hợp ngược lại, bạn phải tự khởi tạo bằng cách thủ công theo các bước dưới đây:
- Đầu tiên, download phần mềm EasyBCD miễn phí tại đây (Chương trình yêu cầu .NET Framework để cài đặt, download tại đây)
- Sau khi cài đặt và kích hoạt, tại giao diện chính của chương trình, kích vào mục Add/Remove Entries. Tại phần bên dưới, điền Windows XP vào mục Name (đây là phần tên sẽ hiển thị tại menu dual-boot, bạn có thể điền tên gì tùy thích, tuy nhiên, nên đặt tên cụ thể để tránh nhầm lẫn), phần Type chọn Windows NT/2k/XP/2k3, phần Drive chọn phân vùng ổ đĩa mà Windows 7 cài đặt trên đó (thông thường là C:), nhấn nút Add Entry và cuối cùng nhấn Save để lưu lại.
- Tiếp theo, nhấn nút Manager Bootloader trên menu chương trình, chọn tùy chọn Reinstall the Vista Bootloader và kích vào nút Write MBR.
Cuối cùng, khởi động lại máy tính, bạn sẽ thấy quá trình khởi động xuất hiện theo menu dual-boot, cho phép bạn chọn 1 trong 2 phiên bản được cài đặt trên máy tính để sử dụng.
Khắc phục lỗi mất phân vùng Windows XP trên Windows 7:
Sau khi khởi động và sử dụng Windows 7, bạn có thể gặp trường hợp phân vùng sử dụng để cài đặt Windows XP sẽ không được hiển thị và nhìn thấy trên Windows 7. Nếu gặp phải lỗi này, thực hiện theo các bước dưới đây để khắc phục:
- Trước tiên, thực hiện như các bước ở đầu bài để mở cửa sổ Disk Management.
- Trong danh sách các phân vùng của ổ đĩa được liệt kê, bạn sẽ thấy có một phân vùng chưa có ký tự đại diện, đó chính là phân vùng cài đặt Windows XP. Click chuột phải lên phân vùng này và chọn Change Drive Letter and Paths.
- Nhấn vào nút Add ở hộp thoại tiếp theo. Chọn tùy chọn Assign the following driver letter, chọn ký tự đại diện cho phân vùng rồi nhấn OK để xác nhận.
Bây giờ, phân vùng cài đặt Windows XP đã xuất hiện bình thường trên Windows 7
Nếu đang sử dụng Windows XP và cài đặt thêm một phiên bản Windows mới hơn, hệ thống sẽ tự động được thiết lập chế độ Dual-boot, cho phép người dùng chọn phiên bản Windows để sử dụng trong quá trình khởi động.
Trong trường hợp ngược lại, nghĩa là bạn cài đặt phiên bản Windows mới (Vista hoặc Windows 7) nhưng lại muốn cài đặt thêm Windows XP để đáp ứng mục đích sử dụng nào đó, thì để tạo được dual-boot, giúp chọn phiên bản Windows để sử dụng là điều không hề đơn giản.
Thủ thuật dưới đây sẽ hướng dẫn các bước để cài đặt Windows XP trên Windows Vista/7 hiện hành, và các bước để tạo menu dual-boot, giúp chọn phiên bản Windows trong quá trình khởi động.
Lưu ý: các bước tiến hành mẫu được thực hiện trên Windows 7. Với người dùng Windows Vista, các bước thực hiện hoàn toàn tương tự.
Tạo phân vùng mới để cài đặt Windows XP
Bước đầu tiên cần tiến hành đó là khởi tạo một phân vùng mới trên ổ cứng rồi cài đặt Windows XP trên phân vùng mới này. Bạn thực hiện theo các bước sau:
- Kích chuột phải vào biểu tượng My Computer, chọn Manager.
- Tại hộp thoại Computer Management hiện ra, chọn mục Disk Management. Danh sách các phân vùng ổ cứng sẽ được liệt kê ở khung bên phải. Click chuột phải vào phân vùng ổ cứng nào có nhiều dung lượng trống nhất, chọn Shrink Volume.
- Tại hộp thoại tiếp theo, bạn điền dung lượng muốn sử dụng để khởi tạo cho phân vùng mới. Dung lượng có thể sử dụng phụ thuộc vào dung lượng trống đang có trên phân vùng. Trong hình ảnh minh họa dưới đây, bạn sẽ thấy dung lượng được chọn để thiết lập là 40 GB. Nhấn vào nút Shrink để tiếp tục.
Lưu ý: Phân vùng để cài đặt Windows XP chỉ cần dung lượng tối thiểu là 1.5 GB.
Sau khi quá trình phân chia ổ đĩa kết thúc, tại danh sách các phân vùng ở bên dưới, bạn sẽ thấy một phân vùng mới, được đánh dấu Unallocated. Kích chuột phải vào phân vùng này và chọn New Simple Volume.
Quá trình thiết lập phân vùng mới sẽ được bắt đầu. Tại hộp thoại mới hiện ra, quá trình sẽ yêu cầu bạn chọn định dạng, đặt tên và tiến hành format cho phân vùng mới. Nhấn Next để qua bước tiếp theo.
Sau khi quá trình format phân vùng mới hoàn thành, trên hộp thoại Disk Mangagement, bạn sẽ thấy xuất hiện một phân vùng với đầy đủ tên, định dạng và dung lượng như đã thiết lập ở trên.
Cài đặt Windows XP vào phân vùng mới
Sau khi đã khởi tạo một phân vùng mới, việc tiếp theo là cài đặt Windows XP vào phân vùng vừa được khởi tạo này.
Các bước khởi động từ đĩa cài đặt, thiết lập… sẽ không được hướng dẫn ở đây. Tuy nhiên, lưu ý, trong quá trình cài đặt, tại bước yêu cầu chọn phân vùng, bạn phải chọn đúng phân vùng mới tạo ra để cài đặt Windows XP lên đó.
Cuối cùng, tiến hành các bước cài đặt như thông thường.
Tạo menu Dual-boot
Sau khi quá trình cài đặt Windows XP kết thúc, máy tính sẽ tự động khởi động và sử dụng Windows XP làm hệ điều hành chính, và bạn không có cách gì để khởi động vào Windows Vista/7 sẵn có trước đó. Đó là lý do chúng ta cần phải khởi tạo menu dual-boot.
Menu dual-boot là giao diện xuất hiện trong quá trình khởi động, cho phép người dùng chọn phiên bản Windows để sử dụng trong trường hợp máy tính được cài đặt 2 hệ điều hành khác nhau.
Như trên đã đề cập, nếu bạn cài đặt Windows Vista/7 trên máy tính sẵn có Windows XP, menu dual-boot sẽ tự động được khởi tạo. Trong trường hợp ngược lại, bạn phải tự khởi tạo bằng cách thủ công theo các bước dưới đây:
- Đầu tiên, download phần mềm EasyBCD miễn phí tại đây (Chương trình yêu cầu .NET Framework để cài đặt, download tại đây)
- Sau khi cài đặt và kích hoạt, tại giao diện chính của chương trình, kích vào mục Add/Remove Entries. Tại phần bên dưới, điền Windows XP vào mục Name (đây là phần tên sẽ hiển thị tại menu dual-boot, bạn có thể điền tên gì tùy thích, tuy nhiên, nên đặt tên cụ thể để tránh nhầm lẫn), phần Type chọn Windows NT/2k/XP/2k3, phần Drive chọn phân vùng ổ đĩa mà Windows 7 cài đặt trên đó (thông thường là C:), nhấn nút Add Entry và cuối cùng nhấn Save để lưu lại.
- Tiếp theo, nhấn nút Manager Bootloader trên menu chương trình, chọn tùy chọn Reinstall the Vista Bootloader và kích vào nút Write MBR.
Cuối cùng, khởi động lại máy tính, bạn sẽ thấy quá trình khởi động xuất hiện theo menu dual-boot, cho phép bạn chọn 1 trong 2 phiên bản được cài đặt trên máy tính để sử dụng.
Khắc phục lỗi mất phân vùng Windows XP trên Windows 7:
Sau khi khởi động và sử dụng Windows 7, bạn có thể gặp trường hợp phân vùng sử dụng để cài đặt Windows XP sẽ không được hiển thị và nhìn thấy trên Windows 7. Nếu gặp phải lỗi này, thực hiện theo các bước dưới đây để khắc phục:
- Trước tiên, thực hiện như các bước ở đầu bài để mở cửa sổ Disk Management.
- Trong danh sách các phân vùng của ổ đĩa được liệt kê, bạn sẽ thấy có một phân vùng chưa có ký tự đại diện, đó chính là phân vùng cài đặt Windows XP. Click chuột phải lên phân vùng này và chọn Change Drive Letter and Paths.
- Nhấn vào nút Add ở hộp thoại tiếp theo. Chọn tùy chọn Assign the following driver letter, chọn ký tự đại diện cho phân vùng rồi nhấn OK để xác nhận.
Bây giờ, phân vùng cài đặt Windows XP đã xuất hiện bình thường trên Windows 7
Labels:
Ebooks-Labs,
ThuThuatPC
Subscribe to:
Posts (Atom)