Pages

Saturday, September 15, 2007

TẮT BỚT CÁC DỊCH VỤ CỦA WINDOWS ĐỂ TĂNG TỐC

Các dịch vụ của Windows (Services) là một trong những thành phần cốt lõi của mọi ứng dụng trên Windows. Với việc sử dụng hợp lý (đóng - ngắt hoặc tạm dừng) sẽ giúp bạn khai thác Windows một cách hiệu quả nhất. Ngoài ra sự hiểu biết các dịch vụ này sẽ giúp bạn tối ưu hóa Windows, tăng cường bảo mật và giảm thiểu virus khi mà các dịch vụ không cần thiết được loại bỏ.

Những nguy cơ tiềm ẩn khả năng tấn công của máy tính thường nằm trong sự thiếu hiểu biết 1 phần nào đó của Windows mà bạn đã vô thức để cho hệ thống tự chạy. Hơn nữa hệ thống có thể sẽ nặng nhọc hơn khi mà phải "gồng mình" khởi động các dịch vụ này. Để truy cập vào các dịch vụ (Services) từ Start bạn chọn --> Control Panel --> Administrative Tools --> Services --> Kích phải chuột vào từng dịch vụ và chọn Properties bạn chọn General --> Startup Type sẽ có 03 lựa chọn Automatic (Sẽ tự khởi động theo mặc định Windows), Manual dùng trong trường hợp bạn tự cấu hình chạy hoặc không chạy mà không phụ thuộc vào cấu hình mặc định Windows, Disabled để đóng dịch vụ khi mà bạn không cần thiết dịch vụ này.

Cũng trong General tab còn có các lựa chọn Start - Stop - Pause - Resume giúp bạn quyết định khởi động hay dừng nhưng bạn phải chú ý rằng khi bạn không lựa chọn Startup Type ở trên thì các chức năng này chỉ có tác dụng trong phiên làm việc hiện tại của Windows mà sau đó khi bạn khởi động lại máy hệ thống lại trả về trạng thái ban đầu vì vậy khi quyết định ngừng hoặc khởi động dịch vụ bạn phải chọn lựa Startup Type.


Cảnh báo: Khi bạn đóng ngắt dịch vụ nào đó tức là bạn đã vô hiệu hóa chức năng bất kỳ trong Windows mà có thể bạn sẽ dùng sau này vì vậy chúng tôi đề nghị bạn đọc kỹ các tính năng trước khi ngắt bỏ (Disabled). Một số tính năng khi mà bạn ngắt bỏ có thể làm cho máy tính báo lỗi do hệ thống đang sử dụng nó cho các ứng dụng được bạn cài đặt



Alerter: Dịch vụ này giúp thông báo cho các máy tính và người dùng được chọn những sự cảnh báo mang tính chất hành chính. Bạn để nó nếu bạn cảm thấy nó cần thiết với bạn. Nếu không thì hãy tắt nó đi.

Application Layer Gateway : Cần thiết nếu bạn muốn dùng Firewall trong Windows ( Internet Connection Firewall ) hoặc Chia sẻ thông tin mạng của Windows ( Windows Internet Connection Sharing ). Sẽ rất vô dụng nếu như bạn không dùng 2 ứng dụng trên.

Application Management : Bạn không dùng chung 1 mạng với ai đó ? Bạn không không có ý định điều khiển 1 trình nào đó thông qua mạng ? Nếu không hãy vô tư mà Disable nó.

Automatic Updates : Bạn muốn máy tự động cập nhật Windows. 1 số trường hợp quay số kết nối để cập nhật mà chủ nhân không biết. Trả tiền cước hàng triệu đồng... Nếu cập nhật mà không mấy hiệu quả thì không cần cập nhật, ngọai trừ các lổ hổng bảo mật lớn thì tự vào website microsoft cập nhật thôi.

Background Intelligent Transfer : Hỗ trợ Windows Update, nếu bạn tắt Automatic Update ở trên thì vô hiệu hóa dịch vụ này nhằm giảm sức nặng hệ thống phần nào.

Clipbook : Cho phép bạn xem những gì lưu trữ trong Clipboard, sắp xếp chúng có trật tự để có thể thi hành tác vụ những gì trong Clipbard. Bạn có thể không cần làm quan trọng mọi việc đến như vậy. Tắt nó đi sẽ giúp các lệnh Copy-Paste-Cut nhanh hơn. Bạn có thể xem nó họat động như thế nào qua cách đánh clipbrd.exe vào lệnh Run trong Start Menu.

COM+ : Cả hai Event System và System Application Services giúp quản lý và nắm quyền Microsoft's Compoment Object Model. Nếu như bạn cần tìm hiểu về vấn đề này, chỉ Microsoft mới có câu trả lời tốt nhất tuy là bằng tiếng anh www.microsoft.com/com/tech/complus.asp. Nói chung, có thể một phần mềm nào đó sẽ cần đến dịch vụ này để chạy, tốt nhất bạn thiết lập nó ở chế độ Manual

Computer Browser : Không hề liên quan gì đến trình duyệt web thân yêu của bạn. Ý nghĩa dịch vụ này là theo dõi những hệ thống khác kết nối vào máy bạn qua 1 mạng chia sẻ. ...Quyết định tùy bạn

Cryptographic services: Dịch vụ chứng nhận - đánh giá trong WinXP. Cho dù bạn cảm thấy không cần thiết với nó, nhưng khuyên bạn nên để nó chạy vì vài tính năng khác của nó khá hữu ích như kiểm tra chứng nhận trình điều khiển các thiết bị của winxp.


DHCP Client: Khi bạn lên mạng hoặc không, dịch vụ này sẽ lấy 1 địa chỉ IP cho bạn. Bạn có thể thử tắt nó. Nhưng nếu bạn bắt đầu gặp những vấn đề lỗi, hiệu hóa nó lại. (Ý kiền cá nhân: Nên tắt nó đi nếu bạn không dùng mạng hoặc bạn dùng mạng nhưng lại đặt IP tĩnh.)


Distributed Link Tracking Client : Quản lý các Shortcut đến tập tin trên Server nào đó . Nếu bạn đã vô hiệu hóa 2 dịch vụ trên thì cũng nên bỏ luôn cái này.


DNS Client: Dịch vụ này giải đáp và thiết lập một bộ đệm về tên miền để hỗ trợ cho máy tính bạn đang sử dụng. Nếu bạn không sử dụng Internet thì nên tắt dịch vụ này đi.


Error Reporting : Tự động thông báo lỗi có thể là 1 tính năng khá tốt nhưng đôi khi lại quá làm phiền và vô dụng.



Event Log : Bỏ. Nhiệm vụ của nó chỉ là ghi lại những báo cáo đôi khi khó hiểu. (Ý kiền cá nhân: Không nên tắt dịch vụ này vì nếu tắt không những không làm cho máy khởi động nhanh hơn mà còn làm cho máy khởi động cực chầm.)



Fast User Switching Compatibility : Nếu bạn không dùng máy chung với nhiều người thì vô hiệu hóa cái này tăng năng lực cho máy rất nhiều.



Help and Support : Sự trợ giúp là 1 điều quý báu nhất là khi ta gặp khó khăn. Nhưng nếu bạn không rành Tiếng anh và không biết nó nói cái gì.... vậy thì nên tắt nó đi thì hơn.


HTTP SSL: Kết nối từ client đến server được thực hiện bằng giao thức HTTPS (HTTP + SSL). Chỉ sử dụng dịch vụ này khi bạn chạy Web Server.


Human Interface Device Access Service: Mở rộng và điều khiển những phím nóng trên các thiết bị nhập. Ví dụ những nút bấm trên bàn phím Play-Next-Internet-Search. Nếu bạn không thường dùng nó, tắt dịch vụ này đi và tận hưởng 0.85% hệ thống nhanh hơn.


IIS Admin: Cho phép bạn quản lý dịch vụ Web và FTP thông qua dịch vụ Internet Information Services (IIS). Nếu bạn không dùng đến những dịch vụ trên thì hãy tắt nó.

IMAPI CD-Burning COM Service : Thật sự ra dùng Nero ghi đĩa trực quan hơn dịch vụ có sẵn trong WinXP này.


Indexing services: Tự động tra sóat thông tin trên ổ cứng nhằm giúp các ứng dụng như Search của windows, Office XP chạy nhanh hơn. Tuy nhiên nó chiếm nhiều tài nguyên và thật sự không xứng đáng với tính năng nó họat động.


IPSEC services: Nếu như máy tính của bạn thuộc vào lọai viễn thông và kết nối với máy khác bởi VPN thì Internet Protocol Security ( IPSEC ) có thể cần thiết. Tuy nhiên tôi không dám mơ tưởng máy mình dữ dội đến vậy. Tạm thời tắt nó đi.



Logical Disk Manager : Nếu như bạn muốn quản lý đĩa cứng của mình ( bấm phải trên biểu tượng My Computer, chọn Manage rồi đến Disk Management ), thì dịch vụ này không thể bị vô hiệu hóa. Vì trình Disk Management phụ thuộc dịch vụ này để chạy. Tuy nhiên, có lẽ bạn không sài đến thường xuyên Disk Management , thiết lập nó sang Manual sẽ là tốt nhất.



Messenger: Vào năm trước , những kẻ Spammer đã nhận ra 1 cách có thể gửi hàng triệu Spam đến người dùng WinXP thông qua Messenger này. Lọai bỏ dịch vụ này là lựa chọn sáng suốt



MS Software Shadow Copy Provider/Volume Shadow Copy: Hỗ trợ Microsoft Backup hay các trình sao lưu ảnh đĩa khác. Một lần nữa, bạn có thể thử qua việc tắt nó, nếu có sai sót nào trong việc sao lưu thì khởi động lại nó sẽ giải quyết vấn đề.


Net Logon: Hỗ trợ việc chứng thực để đăng nhập vào một máy tình thuộc miền.


NetMeeting Remote Desktop Sharing : Không muốn chia sẻ với ai bất cứ cái gì trên máy bạn thông qua NetMeeting ? Không = Disable


Network Connections: Quản lý những đối tượng trong kết nối mạng và kết nối mạng quay số, trong đó bạn có thể thấy được cả mạng cục bộ và những kết nối từ xa.


Network DDE: Cung cấp việc truyền tải và an toàn mạng cho sự trao đổi dữ liệu động (Dynamic Data Exchange(DDE)). Cho những chương trình chạy trên cùng một máy tính hoặc trên những máy tính khác nhau.



Network Location Awareness (NLA): Tập hợp và lưu trữ thông tin về cấu hình và vị trí mạng. Đưa ra thông báo khi những thông tin này thay đổi.


Network Provisioning Service: Quản lý cấu hình của file XML trên một miền cơ sở cho mạng được cung cấp tự động. (XML được thiết kế để thực hiện lưu trữ dữ liệu và phát hành trên các Web site không chỉ dễ dàng quản lý hơn, mà còn có thể trình bày đẹp mắt hơn. XML cho phép những người phát triển Web định nghĩa nội dung của các tài liệu bằng cách tạo đuôi mở rộng theo ý người sử dụng)


Plug and Play : Bạn cần dịch vụ này để nhận biết các thiết bị mới gắn vào Pc, bên trong hay bên ngòai, PCI hay USB, Fire wire đều sẽ cần đến nó, hay chỉ đơn giản là WinXP cần giao tiếp tìm kiếm lại phần cứng nào đó trong 1 số lý do.


Print Spooler: Nếu bạn không dùng máy in thì hãy tắt nó đi thì hơn.


Remote Desktop Help Session Manager : Đừng để ai đó điều khiển máy bạn nếu bạn không muốn bị vậy


Remote Procedure Call : Trong winXP, các ứng dụng được phân chia trong công thức Cá thể tiến trình. Không 1 trình nào ảnh hưởng đến trình nào. Khi 1 phần mềm bị đứng, treo hay không trả lời, nó sẽ không ảnh hưởng đến tòan bộ máy như Win98. Để quản lý hết tất cả những phần mềm này 1 cách thuận tiện, RPC là dịch vụ cần thiết sắp xếp phân vùng bộ nhớ phát cho từng ứng dụng. Nếu tắt nó sẽ gây ra lỗi hệ thống rất nghiêm trọng. Vì vậy bạn đừng làm điều đó.


Remote Registry Service : Bạn có thích cho người dùng khác trên 1 mạng máy tính thay đỗi các thiết lập trong Registry, trái tim của hệ điều hành trên máy bạn ? Bạn sẽ không tìm ra được nguyên nhiên ngày nào đó WinXP bị..vỡ tim đâu. Dịch vụ này là 1 dạng của sự bất bảo mật cho máy.


Security Accounts Manager: Dịch vụ Lưu trữ những thông tin bảo mật cho tài khoản của người dùng tại chỗ.

Security Center: Theo dõi và quản lý những thiết lập và những cấu hình an toàn của hệ thống

Server: Hỗ trợ file, máy in và tên dùng để chia sẻ thông tin qua mạng cho máy tính bạn đang sử dụng. Nếu bạn không dùng chung mạng với ai đó thì nên tắt nó đi.

Smart Card và Smart Card Helper : Nếu bạn không dùng các thẻ nhớ thì bạn biết phải làm gì với dịch vụ này.

SSDP Discovery : một thành phần của Universinal Plug and Play sắp nói đến. Cho dù bạn tắt hay mở nó, bạn cũng sẽ làm cùng chung 1 việc cho SSDP Discovery.

System Restore : Mừng hết lớn khi có thể bay về quá khứ trước khi bạn cài đặt 1 driver lỗi hay phần mềm làm hại hệ thống là ví dụ thực tiễn cho bạn gợi ý nên tắt ứng dụng này hay không. Tuy nhiên vô hiệu hóa nó sẽ tiết kiệm cho bạn rất nhiều dung lượng đĩa. Lưu ý là nếu bạn đã chọn tắt nó thì tất cả những thiết lập sao lưu sẽ bị xóa hết.

Task scheduler : Đôi khi không mấy hữu dụng đối với bạn, Có thể bạn sẽ không cần phải lập lịch dồn đĩa trong đêm, nhưng Task Scheduler có thể cần thiết với và người khác. Tắt nó hay không tùy vào yêu cầu của bạn có cần hoặc không.

TCP/IP NetBIOS Helper : Là 1 đòi hỏi bình thường nếu hệ thống mạng nội bộ của bạn dùng NetBIOS bởi TCP/IP. Tắt nó nếu bạn cảm thấy không cần thiết. Tuy nhiên khởi động lại nếu như mạng nội bộ của bạn ( thậm chí mạng Internet ) có trục trặc liên quan đến việc tắt dịch vụ này.

Telephony : Bạn vô cùng cần - nói cách khác không thể thiếu nó nếu bạn muốn vào Internet thông qua phương thức quay số = Modem. Nhưng nếu là kết nối ADSL, bạn thử thiết lập nó qua Manual để xem nếu có lỗi nào xảy ra vì có thể nó vẫn đòi hỏi dịch vụ này. Nếu không bạn đã giúp máy có thể tài nguyên hệ thống khá là không ít...

Telnet : Cho phép người dùng máy khác dang nhập vào máy bạn và chạy các chương trình. Nếu như bạn có bao giờ nghe đến việc tấn công qua IP thì Telnet là 1 trong những kẻ 2 mặt tiếp tay cho giặc quậy phá thành của bạn. Tắt nó đi, trừ khi bạn cần nó cho 1 lý do nào đó

Uninterruptible Power Supply : An tòan để vô hiệu hóa. Trừ khi bạn có cục UPS cho máy tính mình. Universinal Plug and Play : Tự hỏi bạn có muốn máy mình kiểm tra và tìm hiểu các thiết bị có trên máy người khác trong 1 mạng máy tính nội bộ ? Có thể nó cần thiết nếu như bạn xài Internet Connection Sharing và cho phép người ngòai hiệu chỉnh kết nối cho máy bạn. Dù sao đi nữa, nếu như thật sự không biết gì, bạn có thể tắt nó cũng được.





Webclient : Theo sự mô tả, dịch vụ này cho phép bạn duyệt qua "Network Places" , thực chất đó là mạng Internet. Nó cho phép các chương trình Windows tạo, xâm nhập và thiết lập tập tin trên nền Internet. Theo như 1 số thử nghiệm, nếu như bạn không có kết nối Internet, dịch vụ có thể làm chậm lại máy và cách bạn duyệt web. Vô hiệu hóa để nhận ra và xem xét những sai sót có thể gây phiền cho bạn, nếu không thì bạn đã tiếp tục giảm gánh nặng cho hệ thống.



Windows Audio: Bạn muốn nghe tiếng - âm thanh thỏ thẻ của Pc phát ra từ 2 giàn loa 480 Watts của bạn thì nên để cho dịch vụ này khởi động bình thường. Đối với nó, bạn chỉ nên vô hiệu hóa khi máy không có sound card hoặc chip sound trên bo mạch.


Windows Image Acquisition : Nếu như đơn giản là bạn không có Webcam hay máy Scan hình thì tắt dịch vụ này đi. Tuy nhiên cho dù bạn có, tắt ứng dụng này chắc cũng không ảnh hưởng, vì vậy hãy tắt nó đi cũng được. ( Hay thay nó thành Manual để thử nghiệm trước khi bạn thật sự tắt nó .


Windows Installer : Trợ giúp cho các trình cài đặt .MSI có thể phân phối dữ liệu trong nó cho máy bạn. Nhưng thật chất không phải lúc nào bạn cũng cài-cài-cài phần mềm vào máy mình liên tục. Thay cách khởi động của nó vào Manual sẽ giảm tối thiếu dung lượng Ram bị chiếm.


Windows Management Instrumentation : Dịch vụ này cho phép sự giao tiếp các phần mềm có thể xâm nhập và dùng những tính năng trong Windows có thể diễn ra trọn vẹn. Bản thân windows cũng dùng đến Windows Management Instrumentation, như những trình khác làm, tốt nhất bạn để nó họat động.


Windows Time : Đồng ý là thời gian là vàng là bạc là hàng lọat thứ một đi không quay lại. Nhưng nếu như bạn không muốn Windows phải chú trọng đến điều đó cho bạn, nếu như bạn không cp1 1 máy tính luôn kết nối mạng thì không đồng bộ hóa giờ giấc không có nghĩa là bạn có tội.


Wireless Zero Configuration : Bạn dùng mạng không dây? Nếu không, nên vô hiệu tính năng này.


WMI Performance Adapter : Windows Management Instumentation ( WMI ) là 1 ứng dụng rất có ích nhưng nó có thể làm chậm máy.Nếu như bạn không phải là 1 nhà thiết kế chương trình thì không cần quan tâm đến việc này. Ngòai ra bây giờ bạn có thể tắt nó đi.

Các tình huống khi cài đặt song song Vista & XP trên cùng một PC

Đã cài XP nay cài thêm Vista; Đã cài Vista nay cài thêm XP; Đã cài Vista và XP nay cần cài lại XP; Đã cài Vista và XP nay muốn tháo gỡ Vista... Đó là những tình huống mà bạn có thể gặp khi muốn cài song song hai hệ điều hành Windows Vista và XP trên cùng một máy. Bài viết này sẽ giúp bạn giải quyết từng tình huống một, cũng như đưa ra những lưu ý khi cài Vista làm hệ điều hành duy nhất.
Đã cài XP nay cài thêm Vista; Đã cài Vista nay cài thêm XP; Đã cài Vista và XP nay cần cài lại XP; Đã cài Vista và XP nay muốn tháo gỡ Vista... Đó là những tình huống mà bạn có thể gặp khi muốn cài song song hai hệ điều hành Windows Vista và XP trên cùng một máy. Bài viết này sẽ giúp bạn giải quyết từng tình huống một, cũng như đưa ra những lưu ý khi cài Vista làm hệ điều hành duy nhất.
1. Đã cài XP nay cài thêm Vista:

Máy bạn đã cài đặt trước Windows 9x, Me, 2K, XP và bây giờ bạn muốn cài đặt thêm Vista thì công việc cài đặt thêm không có gì khác biệt lắm so với các hệ điều hành trước đó của Microsoft. Chỉ có một chút khác với Win XP là phân vùng cài đặt Vista buộc phải là NTFS. Sau khi quá trình cài đặt Win Vista hoàn tất, bạn restart lại máy là sẽ có thêm menu Dual boot để chọn Win Vista hay hệ điều hành ban đầu (để có menu Dual boot thì Win Vista phải là hệ điều hành cài đặt sau cùng trong máy tính). Nếu bạn có ổ đĩa ghi DVD hay mua đĩa ngoài cửa hàng để cài thì không có gì để nói, nhưng nếu chỉ có file ảnh (dạng iso) download từ Internet thì bạn vẫn có thể cài đặt Vista theo 2 cách:

- Dùng WinRAR để giải nén bộ nguồn cài Vista vào một thư mục nào đó, như C:\Vista chẳng hạn, sau đó chạy file setup.exe để cài đặt.

- Dùng một chương trình tạo ổ đĩa ảo như Daemon Tools, Alcohol hay Nero ImageDrive và thực hiện thao tác “chèn” file iso Vista vào ổ đĩa ảo để cài đặt trong Windows.

Cách cài đặt này có một điểm cần chú ý là trong quá trình extract file, máy sẽ tự động restart lại khi được 27%, sau đó tiếp tục chạy như bình thường.

2. Cài Vista làm hệ điều hành duy nhất

Nếu muốn Win Vista là hệ điều hành duy nhất trên chiếc PC hiện đại của mình thì ngoài cách format lại đĩa cứng và cài Vista, bạn cũng có thể nâng cấp (với điều kiện như đã nói trên là phân vùng chứa Vista phải có định dạng NTFS) từ Win XP SP2, Win Vista beta 2 hoặc các phiên bản thử nghiệm mới hơn để nó trở thành Vista bản chính thức bằng tùy chọn In-place Upgrade. Tuy nhiên để nâng cấp lên được Vista bản chính thức thì bạn phải thực hiện quá trình upgrade ngay trong hệ điều hành hiện tại (XP SP2 hay Vista beta 2) mà không thể làm bằng cách boot máy từ CD/DVD được. Một lưu ý khác là quá trình cái đặt Vista không yêu cầu phải điền CD Key bắt buộc như với các hệ điều hành trước đây, nếu bạn cài đặt mà không có key thì chỉ dùng được 30 ngày mà thôi.
3. Đã cài Vista nay cài thêm XP

Bạn đã cài đặt Vista mới hoàn toàn, nay muốn cài đặt thêm lại Win XP do nhu cầu công việc hoặc do các thiết bị của mình hoàn toàn bị “tê liệt” trong Vista thì có thể làm theo các bước sau:

- Dùng một chương trình tạo phân vùng mới để cài XP bằng các công cụ như Parttion Magic, hay cũng có thể dùng chính công cụ Disk Management của Windows để tạo phân vùng mới nếu đĩa cứng của bạn có phân vùng Unallocated Space.

- Sau khi đã có phân vùng cài Win XP (giả sử là D), bạn sử dụng đĩa CD Win XP, chọn boot từ CD/DVD rồi tiến hành cài đặt XP như bình thường. Sau khi quá trình cài đặt XP hoàn tất, bạn sẽ không vào lại đựơc Vista (nhưng đây chỉ là tạm thời).

- Bước tiếp theo là tạo Vista Dual Boot menu: tải phần mềm VistaBootPRO 3.1.0 từ http://vistabootpro.org và download .Net Framework 2.00 (nếu máy bạn chưa có) tại http://www.microsoft.com/downloads/details.aspx?familyid =0856eacb-4362-4b0d-8edd-aab15c5e04f5 &displaylang=en.

- Khởi động chương trình, bỏ qua hộp thoại backup BCD. Chọn tab Bootloader và chọn Reinstall the Vista bootloader, chọn tiếp menu Diagnostics và chọn Run Diagnostics, trang Dual boot menu sẽ tự động khôi phục lại và bạn sẽ nhìn thấy các hệ điều hành xuất hiện trong menu Dual boot khi khởi động máy. Sau khi restart, bạn sẽ có menu Dual boot bình thường để chọn vào Vista hay XP.

4. Đã cài Vista và XP nay cần cài lại XP

Bạn cài đặt Win XP ở ổ C và Vista ở ổ D. Một ngày nào đó, bạn không vào Windows XP được, hoặc máy bị lỗi phải ghost hay cài đặt lại. Tất nhiên, nếu như làm theo kiểu thông thường thì Vista sẽ “biến” luôn. Để có thể chạy Vista và XP bình thường sau khi cài mới lại XP, bạn làm như sau:

- Copy folder Boot trên ổ C đến 1 folder tạm ở ổ đĩa khác C (ổ đĩa chứa Vista D chẳng hạn) và làm tương tự cho file bootmgr.

- Cài đặt phần mềm VistaBootPRO như đã nói trên, khi khởi động chọn tab Backup/Restore Center, chọn Backup Center, chọn ổ đĩa cài đặt Vista (ở đây là D) để tạo một bản sao của BCD Store (chứa đựng trình quản lý menu Dual boot của Vista).

- Sau đó uninstall Vistabootloader từ tab Bootloader, qua tab Manage OS Entries và xóa hết các hệ điều hành có trong list (bấm chọn > chọn biểu tượng có dấu X).

- Sau đó khởi động lại máy bằng CD cài XP và cài bình thường. Sau khi cài đặt xong XP bạn cũng sẽ chưa vào được Vista.

- Hãy đăng nhập vào XP cài đặt lại VistaBootPRO. Tiến hành copy folder Boot và file bootmgr trở lại ổ đĩa C. Chọn tab Bootloader của VistaBootPRO, bấm chọn lại Reinstall the Vista bootloader > Apply. Tiến hành khởi động lại máy, bạn sẽ thấy lại menu Dual Boot giúp bạn boot vào Vista hoặc XP như trước.

5. Tháo gỡ Vista, để lại các hệ điều hành khác

Sau một thời gian sử dụng bạn không muốn dùng Vista nữa (vì tốc độ ì ạch của nó chẳng hạn), bạn có thể xóa nó đi mà không hề ảnh hưởng đến các hệ điều hành khác có trên máy bằng cách thực hiện như sau:

- Mở VistaBootPRO, chọn tab Bootloader, chọn tùy chọn Uninstall the Vista bootloader > Apply.

- Sau đó tiến hành format lại ổ đĩa cài Vista.

- Trong ổ C chứa XP bạn tìm xóa các file $recycle.bin, Boot.bak, Boosect.bak (các file này có tính ẩn - file hệ thống, nên bạn phải bật chức năng hiển thị file hệ thống trong menu Tools > Forder Options, bỏ dấu chọn Hide Protect oprerating... và chọn Show hidden files... > OK). Ngoài các file trên, còn có folder Boot và file bootmgr, để xóa chúng bạn cần phải có quyền admin.

¡ Lưu ý:

- Do Vista là một hệ điều hành quá mới trong khi chiếc PC của bạn mua từ 1 - 2 năm trở lại đây chỉ có đĩa driver hỗ trợ cho Win XP, các thiết bị của bạn có thể không hoạt động tốt với driver do Vista cấp. Nếu bạn dùng đĩa driver này để cài đặt thì rất có thể sẽ nhận được một cảnh báo về sự không tương thích. Tuy nhiên trong Vista có chế độ Compatibility, cho phép hệ điều hành tạo được sự tương thích tốt với các driver vốn chỉ được hỗ trợ bởi Win XP SP2 hay 2K3 (SP1) mà thôi. Cách thực hiện như sau:

Copy file driver vào trong một folder tạm nào đó, bấm phải chọn Properties, chọn tab Compatibility, chọn “Run this program in compability mode for”, chọn Windows XP SP2 hoặc Win 2K3 và có thể chọn thêm tùy chọn “Run as Administrator” nếu bạn đăng nhập với quyền admin, xong bấm Apply > OK và tiến hành cài đặt driver bình thường, khởi động lại máy để hoàn tất quá trình cài đặt. Thiết bị của bạn có nhiều khả năng sẽ làm việc “trơn tru” như khi sử dụng trên Win XP.

- Một lưu ý cho những bạn đang dùng card màn hình có chip ATI và NVIDIA: bạn sẽ không bao giờ tìm thấy driver hỗ trợ chúng nữa trên website của hãng sản xuất, nên lời khuyên tốt nhất là bạn nên dùng driver do chính Vista cấp cho khi cài đặt Win. Đối với âm thanh, nếu bạn không nghe được gì hoặc thất bại khi cài đặt driver thì bạn cũng có thể áp dụng chế độ Compatility. Với những máy có card mạng thì driver sẽ không cài đặt kèm theo Vista nên bạn cũng phải cài lại driver.

Các địa chỉ test trình độ tiếng Anh

Từng học tiếng Anh, có khi nào bạn thử đánh giá trình độ của mình chưa? Với những bạn có điều kiện việc đăng ký thi các chứng chỉ quốc tế như IELTS, TOEIC, TOEFL (gần đây là TOEFL iBT),… hoặc đến các trung tâm ngoại ngữ để thi thử. Còn các bạn không có điều kiện thì sao? Cách đơn giản nhất là tự đánh giá mình, nhưng chưa hẳn đã chính xác. Một cách khá hay và lý thú là nhờ các trang web chuyên về ngoại ngữ đánh giá mình. Dưới đây là những trang web mà tôi sưu tầm được. Nó là một công cụ hữu ích cho tất cả các bạn.


1.http://englishenglish.com/englishtest.htm
(90 câu, 45', kết quả có ngay)


2. http://bostonlanguage.dli.com/placement_test/placementTest.jsp


Hoặc


http://www.aei.dli.com/placement_test/placementTest.jsp

(40 câu hỏi ở nhiều mục khác nhau, 3 kỹ năng: nghe, đọc hiểu, ngữ pháp)


3. http://www.anglolang.co.uk/englishtestpages/placement/index.html
(Làm trong vòng 60', 100 câu, có bộ đếm ngược thời gian, kết quả gửi qua email)


4. http://www.lang.ox.ac.uk/tests/english_placement.html
(50 câu, kết quả có ngay, Trung tâm Ngôn ngữ Đại học Oxford)


5. http://www.reward-net.co.uk/placement.htm
(Làm trong vòng 95', đánh giá đủ trình độ)


6. http://secure.vec.bc.ca/vec/online-test.cfm
(Kết quả gửi qua email, rất hay)


7.http://www.anglolang.com/placement_test.html
(100 câu, kết quả gửi qua mail, 60 phút để hoàn thành)


8. http://www.ibs-b.hu/portal/page/portal/IBSHome/Admission/English%20Placement%20Test/Exam.htm
(35 câu, ngữ pháp, từ vựng,…)


9. http://www.languagesystems.com/wptest/bottom.asp
(35 câu)


10. http://secure.vec.bc.ca/vec/online-test.cfm
(Rất nhiều)

Đưa thêm (chèn) Yahoo Messenger chat vào trên blog

Để tiện liên lạc với bạn bè, bạn có thể đưa thêm yahoo messenger chat vào trên blog hoặc web. Khi đó người xem chỉ cần click lên biểu tượng trên blog để bắt đầu gửi cho bạn message (tin nhắn). Ngoài ra người xem cũng có thể biết liệu bạn có online hay không.

Bạn có thể sử dùng nhiều cách như dưới đây (lưu ý các đoạn mã html này phải được đặt trong chế độ soạn thảo html)
Ví dụ địa chỉ email của tôi là VinaBlogBS@yahoo.com thì sẽ có nick Yahoo Messenger là VinaBlogBS

1. Cách 1:

Send me a message sẽ có kết quả như dưới đây:
Send me a message

2. Cách 2: bạn muốn đưa vào message mặc định khi người sử dụng click vào bằng thuộc tính "m". Message có khoảng trắng phải được thay bằng dấu "+"
Ví dụ:
Gửi tin nhắn cho tôi
sẽ có kết quả dưới đây.
Gửi tin nhắn cho tôi

3. Cách 3: đây là cách mà bạn thường hay thấy trên các trang web. Vì nó mang tính trực quan vào cũng cho người xem biết bạn có online hay không.


Chữ sẽ hiển thị khi không có hình

Ở đây KieuHinh là các số 1, 2, hoặc 3 tương ứng với các hình có sẵn của Yahoo.Ngoài ra height: là chiều cao của hình, width: chiều rộng của hình (bạn có thể không cần dùng 2 thuộc tính này)

Ví dụ:

VinaBlog.blogspot.com
sẽ có kết quả như dưới đây:

VinaBlog.blogspot.com

Bạn hãy thử xem nhé.

Friday, September 7, 2007

Cấu hình ADSl trên Router Cisco

Router >enable

//Vào mode previlidge

Router #show run

//xem thông số cấu hình router

Router#configure terminal

//Vào mode cấu hình global

Router(config)#interface dialer 0

//Tạo & cấu hình Interface dialer 0

Router(config-if)#ip address negotiated

//nhận địa chỉ động từ ISP

Router(config-if)#encapsulation ppp

//đóng gói qua giao thức PPP

Router(config-if)#ppp chap hostname (dsl-010101-010)

//nhập username mà ISP cung cấp. Nếu ISP sử dụng phương pháp xác thực là PAP thì dùng command

ppp pap send username (dsl-xxxxx-xx)

Router(config-if)#ppp chap password
//nhập password mà ISP cung cấp . Nếu ISP sử dụng phương pháp xác thực là PAP thì dùng command
ppp pap send password

Router(config-if)#ip nat outside

//khai báo dialer 0 là outside


Router(config-if)#mtu 1492

// xxx


Router(config-if)#dialer pool 1

// Khai báo line ADSL

Router(config-if)#exit

//thoát khỏi cấu hình dialer 0

Router(config)#interface ATM 0

//cấu hình ATM

Router(config-if)#no shutdown

// Enable Internet ATM (Do đây là 1 Interface vật lý nên mọi người lưu ý phải no shutdown Interface này)

Router(config-if)#pvc

//khai báo VPI và VCI mà ISP cung cấp

Router(config-if-atm-vc)#pppoe-client dial-pool-number 1

// ATM sẽ đóng gói packet bằng giao thức PPPoE và sẽ đi ra Internet thong qua dialer pool 1 đã khai báo trên Interface Dialer 0

Router(config-if-atm-vc)#exit

//Thoát khỏi mode config trên Interface ATM0


Router(config-if)#exit

//thoát khỏi cấu hình ATM

Router(config)#interface Ethernet 0

//cấu hình Ethernet 0



Router(config-if)#ip address ( 192.168.1.1 255.255.255.0 )

//Cấu hình IP LAN cho Interface Ethernet

Router(config-if)#no shutdown

// Enable Internet Enthernet 0

Router(config-if)#ip nat inside

//khai báo Ethernet là inside ( Interface nối trực tiếp với mạng LAN)

Router(config-if)#ip tcp adjust-mss 1452

// xxx

Router(config-if)#exit

//thoát khỏi cấu hình Ethernet 0

Router(config)#access-list 101 permit ip any

//tạo bộ access-list để chuẩn bị cho việc port forwarding ( PAT ) các packet trong LAN thành packet WAN hợp lệ



Router(config)#ip nat inside source list 101 interface dialer 0 overload

//Apply việc PAT các gói tin từ LAN ra ngoài WAN

Router(config)#ip router 0.0.0.0 0.0.0.0 dialer 0

// Tạo định tuyến tĩnh cho việc kết nối Internet

Router(config)#ip dhcp pool FPT

//cấu hình DHCP

Router(dhcp-config)#network

//cung cấp pool ip address trong LAN 192.168.1.x /24

Router(dhcp-config)#default-router

//cung cấp default gateway ( IP address của Interface Ethernet )

Router(dhcp-config)#import all

//Chấp nhận thông tin DNS từ ISP cấp về

Router(dhcp-config)#exit

//thoát khỏi cấu hình DHCP

Router(config)#exit

//thoát khỏi cấu hình global

Router#show run

//xem lại thông số cấu hình

Router#show ip interface brief

//hiển thị thông tin về tất cả interface . Kiểm tra Interface Dialer 0 đã nhận được IP WAN từ ISP cấp hay chưa ?


Router#ping IP WAN

Router#show interface dialer 0

Luôn hiện nút Hibernate trong hộp thoại Turn off computer

Bạn thường sử dụng chức năng Hibernate, tuy nhiên khi sử dụng chức năng này, bạn phải giữ phím Shift trong hộp thoại Turn off computer để cho hiện nút Hibernate. Để thuận lợi hơn, bạn nên cho nút Hibernate mặc định hiển thị khi mở hộp thoại Turn off computer.

Đầu tiên bạn vào Control Panel - User Accounts chọn Change the way users logon on or off và bật chức năng Welcome Screen lên.

Tiếp theo, bạn mở Notepad và nhập vào dòng sau
Windows Registry Editor Version 5.00

[HKEY_LOCAL_MACHINE\SYSTEM\CurrentControlSet\Services\ACPI\Parameters]
“AMLIMaxCTObjs”=hex:04,00,00,00
“Attributes”=dword:00000070

[HKEY_LOCAL_MACHINE\SYSTEM\CurrentControlSet\Services\ACPI\Parameters\WakeUp]
“FixedEventMask”=hex:20,05
“FixedEventStatus”=hex:00,84
“GenericEventMask”=hex:18,50,00,10
“GenericEventStatus”=hex:10,00,ff,00

Lưu tập tin này lại với tên là hibernate.reg và tiến hành chạy nó, bạn sẽ được kết quả như ý. Restart máy tính .

Thursday, September 6, 2007

Hacking mọi phiên bản Deepfreeze khi không biết mật khẩu đăng nhập.

Bạn muốn cài đặt một phần mềm mới, nhưng cứ khi PC được khởi động lại thì bạn lại "mất hết" và lại "toi cơm" để lẽo đẽo tại lại nó và chờ đợi nhọc cổ mới xong việc.
Bạn muốn cài một chú "Keylogger" nhưng khốn khổ thay cho bạn, làm sao có thể "nặng túi" được khi mà bạn đứng dậy thì biết đâu đấy "anh chàng chủ quán net" lại muốn "tiết kiệm điện và Shutdowns PC?
Bạn muốn dạy cho "quán net" một bài học rằng : Deepfreeze hay Go back có gì mà ghê gớm. Tay không cũng phá được máy?
Cách thứ nhất : Dùng phần mềm DeepUnfreeze
Hữu hiệu và nhanh gọn khi bạn muốn Hacking Deepfreeze của quán Net/trường học mà không biết mật khẩu
Bạn phải biết chính xác phiên bản của Deepfreeze đang cài trên PC thì mới có thể vô hiệu hoá nó bằng phiên bản thích hợp của DeepUnfreeze. VD: Chỉ có thể dùng DeepUnfreeze 1.6 để vô hiệu Deepfreeze phiên bản dưới 5,30,20,1181. Muốn vô hiệu "DeepFreeze Standard Evaluation Version 5.70.021.1453" hay "Deep Freeze 5 Enterprise Workstation Version 5.70.220.1125" thì phải dùng DeepUnfreeze mới hơn 1.6
Bạn vô Google để tìm kiếm phiên bản mới nhất, hoặc có thể Dowload Deep Unfreeze 1.6 tại đây:
DeepUnfreezerU1.6.exe
DeepUnFreeze 1.6.rar
Vô hiệu hoá Deepfreeze: Chạy file Deep Unfreeze và chọn Boot Thawed on next (1 restarts) .Số lần mặc định là 1, bạn có thể thay đổi là 2,3,.....tuỳ theo số lần PC khởi động lại và bị vô hiệu hoá tương ứng với sô lần bạn chọn. Hoặc bạn có thể chọn "Boot Thawed" để vô hiệu hoá vĩnh viễn Deepfreeze trong mọi lần PC khởi động. Sau đó chọn Load Status và Save Statut. Thoát và khởi động lại PC bạn sẽ thấy Deepfreeze bị vô hiệu hoá.


Gỡ bỏ hoàn toàn Deepfreezee: Làm như trên. Sau khi khởi động lại máy hãy chạy file cài đặt Deepfreeze tương ứng với bản đã cài đặt vào PC và chọn Uninstall.
Cách thứ hai : Vô hiệu hoá Deefreeze bằng cách thay đổi ngày tháng năm trong BIOS của PC
Khi quán NET/Trường học cài Deepfreeze thường là bản dùng thử hoặc bản dùng chùa nên bạn chỉ cần thay đổi ngày tháng trong BIOS quá khoảng 3 tháng là Deepfreeze hết tác dụng ngay lập tức.
Đối với đa phần các dòng PC thì trước khi hệ điều hành được nạp (ở đây là Windows) bạn chỉ việc nhấn F2 ( Press F2 for Enter Setup). Cũng có thể là nhấn DELETE hoặc PAUSE tuỳ thuộc vào dòng BIOS. Bạn nhìn thấy hướng dẫn này khi máy vừa được bật nên và logo của Windows chưa được load, khi đó màn hình có một vài dòng chữ phía trên cùng và phía dưới cùng. Nếu bạn không nhanh tay bấm F2/DELETE/PAUSE thì bạn phải Reset lại và làm lại.
Sau khi đã thay đổi ngày tháng. VD đổi từ Tuesday, June 13, 2006 sang Tuesday, June 13, 2007. Hãy nhấn F10 để ghi lại và khởi động tiếp PC. Khi đó bạn sẽ thấy Deepfreeze có hình như sau:

Bạn hãy chạy lại File cài đặt để gỡ bỏ nó. Tiếp sau xoá 2 key của Deepfreeze tại nhánh sau: HKEY_LOCAL_MACHINE\SOFTWARE\Microsoft\Windows\CurrentVersion
Cách thứ ba : Phá hoại và thay đổi file hệ thống của Deepfreeze
Với Windows 95/98/me:
Deepfreeze là một trình điều khiển ảo thường trú tại c:\windows\system\iosubsys\persifrz.vxd.
Chỉ có một hy vọng cho hầu hết Hacker khi muốn phá Deepfreeze là khởi động PC
từ đĩa từ và xoá tập tin này đi. Tất cả các tập tin khác tại c:\progra~1\hypert~1\deepfr~1
chỉ là tập tin chương trình.Tập tin bị xoá, persifz.vxd chính là tập tin thực của trình điều khiển
Deepfreeze.Thế nhưng có một sự thật là nếy bạn xoá những tệp tin khác tại thư mục
của Deepfreeze (khi thực hiện khởi động PC từ đĩa mềm) thì Deepfreeze sẽ không
được nạp vào nữa.Tôi vừa chỉ cho bạn một cách tốt và dễ dàng nhất.
Xoá tệp tin persifrz và Deepfreeze sẽ "tắt ngấm" sau khi "ăn" một cú đấm.


Với Windows 2000/XP:
Deepfreeze sẽ gồm 2 drivers và 1 service:
DepFrzLo.sys (kernel driver)
DepFrzHi.sys (filesystem driver)
dfserv.exe (service)
frzstate.exe (password dialog)
persis00.sys (password file and "on/off switch")
Hãy dùng chương trình "NTFSDOSPRO" để ghi đè mật khẩu mới của bạn lên file mật khẩu cũ "persis00.sys" , sau đó đăng nhập vào DeepFreeze với mật khẩu mới này và chọn chế độ Boot Thawed. Tệp tin Persis00.sys bao gồm mật khẩu và on/off switch vào Driver để kiểm tra và chạy khi Wìndows khởi động và máy nạp ở một trong hai trạng thái Thawed mode hay Frozen Mode
Như vậy bạn có thể dễ dàng xoá Files chương trình của DeepFreeze khi Boot PC bằng đĩa khởi động. Bạn có thể dùng chương trình InCtrl5 để loại bỏ những tệp tinh phát sinh do cài đặt Deepfreeze.


chúc bạn thành công !